Năm 2022, khi thế giới vừa trải qua đại dịch Covid-19 và bắt đầu quay trở lại cuộc sống bình thường nhờ vào thành công của việc phát triển các dòng vaccine Covid-19, với gần 9 tỷ liều vaccine được phân phối cho trên 184 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong chiến dịch tiêm chủng lớn nhất lịch sử nhân loại [1]. Tại thời điểm đó, lĩnh vực công nghệ thông tin đã đạt được nhiều điểm nhấn về tốc độ tăng trưởng. Trong hơn một năm, các công ty công nghệ lớn đã hưởng lợi “khủng” từ sự bùng bổ chi tiêu trực tuyến và làm việc từ xa. Nhưng đến năm 2023, nhiều doanh nghiệp trong số này báo cáo tốc độ tăng trưởng suy giảm cho thấy sự giảm tốc trong thương mại của các nền kinh tế thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động về kinh tế – địa chính trị đã tác động đến triển vọng chung toàn cầu. Lạm phát tăng lên đến mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các Chính phủ thắt chặt chính sách tiền tệ khiến người dân siết chặt chi tiêu trong bối cảnh sự hỗ trợ tài chính liên quan đến đại dịch Covid-19 đang giảm dần. Nhiều quốc gia có thu nhập thấp đang phải đối mặt với những khó khăn về tài chính. Đồng thời, xung đột Ukraina làm gia tăng khả năng xảy ra gián đoạn địa chính trị toàn cầu. Mặc dù tác động của đại dịch đã giảm ở hầu hết các quốc gia, nhưng làn sóng kéo dài của nó vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế, đặc biệt là ở Trung Quốc. Dự báo năm 2023 có 143 nền kinh tế (chiếm 92% GDP thế giới) yếu hơn dự kiến. Ba nền kinh tế lớn nhất thế giới, gồm Trung Quốc, khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ, sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể vào năm 2023. [2]
Trong tháng 01/2023, hàng loạt công ty công nghệ lớn gặp khó khăn về tài chính. Ngoài việc đối mặt với khủng hoảng và những bất ổn chưa từng có trong lịch sử, với nhiều rủi ro phát sinh hơn, thì các công ty còn cần phải hiện thực hóa kế hoạch phù hợp để tiếp tục duy trì hoạt động và phát triển, trong một tương lai mà các công cụ mã hóa được hỗ trợ bởi AI sẽ là một hướng đi hiệu quả hơn cho việc gia tăng năng suất. Theo Morgan Stanley, Giám đốc điều hành của Microsoft thì việc sử dụng AI đã giúp tăng năng suất lao động lên 55%. Nhưng đồng thời sẽ làm giảm nhu cầu tuyển dụng nhân viên, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Nói cách khác, một số công việc sẽ bị mất không quay trở lại hoặc sẽ quay trở lại chậm hơn nhiều. Trong tương lai, một số cơ hội việc làm công nghệ thậm chí có thể không tồn tại. Đã có nhiều nhận định về điều này. Tại Alphabet, Urs Hölzle – Giám đốc kỹ thuật của Google thông báo công ty sẽ sử dụng công nghệ tự động hóa để “tìm ra những cách làm việc hiệu quả hơn”.
Tại Việt Nam, theo các kỹ sư công nghệ thông tin (IT), các công ty về công nghệ phần nhiều là gia công phần mềm (outsourcing). Chính vì vậy, khi các công ty công nghệ trên thế giới gặp khủng hoảng thì nhiều doanh nghiệp trong nước cũng bị tác động ít nhiều. Trong bối cảnh các cảnh báo về suy thoái kinh tế lan rộng trên toàn cầu, các công ty công nghệ buộc phải đánh giá lại chi tiêu và chuẩn bị cho một cuộc suy thoái tiềm ẩn. Để chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống này, các doanh nghiệp trong nước cần xây dựng một kế hoạch toàn diện nhằm giải quyết các tác động khủng hoảng theo các diễn biến tiềm tàng khác nhau. Kế hoạch này phải phù hợp với mức độ, thời gian, diễn biến của cuộc khủng hoảng, đồng thời nghiên cứu các tác động đối với việc thanh khoản, nguồn vốn và đưa ra các giải pháp về tuyền dụng nhân sự phù hợp với xu thế chung toàn cầu, đáp ứng sự ra đời đột ngột của trí tuệ nhân tạo – AI. Những người đã và đang làm công việc tự động hóa sợ rằng họ sẽ sớm bị công nghệ tự động hóa thay thế. Vậy phải có một chiến lược và kế hoạch hợp lý ngay từ bây giờ sẽ là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc phát triển kỹ năng phù hợp. Điều đó sẽ thúc đẩy, cải thiện khả năng sử dụng lao động, năng suất và khả năng cạnh tranh của các ngành, đồng thời gia tăng sự năng động, tăng trưởng của nền kinh tế. Phát triển kỹ năng người lao động đặc biệt trong ngành công nghệ thông tin cần được sớm đưa vào kế hoạch quốc gia như một ưu tiên hàng đầu, là trụ cột trung tâm hỗ trợ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, cũng như được hỗ trợ phát triển bởi nguồn ngân sách. Cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ về tầm nhìn kinh tế – xã hội của đất nước, và các chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia, đổi mới công nghiệp và lập kế hoạch phát triển kỹ năng cho người lao động cũng phải được thực hiện theo trình tự để tạo ra các kỹ năng cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thích ứng trước bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến đổi.
Tại Việt Nam, việc phát triển kỹ năng là một phần không thể thiếu trong chính sách quốc gia. Hiện nay, Đề án “Nâng cao nhận thức, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cùng với chương trình chuyển đổi số của Chính phủ và cuộc cách mạng 4.0 đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, cùng với các doanh nghiệp hiện có đã tạo nên một sự sôi động trong tuyển dụng nguồn nhân lực của ngành. Trong việc phát triển nguồn nhân lực ngành Công nghệ thông tin phù hợp với cách mạng Công nghiệp 4.0, điều quan trọng là người lao động cần xác định được yêu cầu của nghề nghiệp tương lai, xây dựng tinh thần tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp với tương lai. Trong đó chú trọng việc tự học, tự thực hành, thực tập, thực tế để tự tích lũy kinh nghiệm, tự hoàn thiện các kỹ năng theo hướng dẫn của đơn vị đào tạo. Tập trung vào các chuyên ngành cơ bản, như: lập trình, phân tích hệ thống, quản trị cơ sở dữ liệu, chuyên gia bảo mật, chuyên gia kỹ thuật số, đồng thời ứng dụng lí thuyết đã học vào thực hành nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ thực tế đặt ra. Ngoài ra, người lao động phải tự học, rèn luyện thông qua việc đào tạo để đảm bảo kiến thức nghề nghiệp rộng, khả năng ứng dụng trong các tình huống khác nhau, sáng tạo và linh hoạt, làm việc có phương pháp, giao tiếp xã hội, quản lý và trách nhiệm với bản thân, nghề nghiệp và xã hội… đáp ứng yêu cầu kiến thức, kỹ năng của Công nghiệp 4.0, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số của Đề án quốc gia về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo thống kê, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam khá thấp ước đạt 1,1% trên tổng số 51 triệu lao động cả nước, con số này khá thấp so với các nước định hướng công nghệ như Hoa Kỳ (4%), Hàn Quốc (2,5%) hay Ấn Độ (1,78%). Cụ thể, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin của Ấn Độ là 1,78% trên tổng số lao động quốc gia, của Hàn Quốc là 2,5% và của Mỹ là 4%. Tuy nhiên, tỉ lệ này của Việt Nam dự kiến sẽ tăng lên 2% và cùng với đó là nâng cao chất lượng kỹ thuật trong thời gian tới. Trong “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực số” mới đây của FPT Digital, Việt Nam có gần 400.000 kỹ sư công nghệ thông tin và hơn 50.000 sinh viên chuyên ngành công nghệ thông tin tốt nghiệp mỗi năm. Tuy vậy, chỉ có khoảng 30% lực lượng nhân sự công nghệ thông tin này đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc. Dự báo năm 2030, kinh tế số thúc đẩy GDP Việt Nam tăng thêm 7 – 16%, tương đương khoảng 28 – 62 tỷ USD. Chính phủ đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp thực hiện thúc đẩy nền kinh tế số nước nhà, trong đó con người là một trong những yếu tố trọng tâm. Nguồn nhân lực mới với tư duy số và kỹ năng số sẽ là lực lượng chủ yếu để triển khai và hiện thực hóa, quyết định sự phát triển của nền kinh tế số. Hiện nay, do nhu cầu về nhân lực số chất lượng cao trong ngành công nghệ thông tin tiếp tục tăng khi Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho đầu tư công nghệ cao. Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ) có nhận định Việt Nam có tiềm năng trở thành cường quốc kỹ thuật số mới ở Đông Nam Á. Trong xu thế toàn cầu hoá, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực quản lý, sản xuất, kinh doanh… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển công nghệ thông tin là chiến lược được ưu tiên trong chiến lược phát triển khoa học công nghệ ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, để ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả vào tiến trình chuyển đổi số trên các lĩnh vực, điều kiện tiên quyết là cần phải có nguồn nhân lực có trình độ, có khả năng tiếp nhận và sử dụng thành công những tiến bộ của khoa học công nghệ.
Từ những phân tích trên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cần có những giải pháp trong đào tạo nhân lực ngành Công nghệ thông tin đáp ứng với tình hình trong nước và quốc tế như sau:
Một là, hiện nay, chuẩn kỹ năng công nghệ thông tin được công nhận tương đương với các nước tiên tiến đã được triển khai tại Việt Nam. Việc đào tạo và sát hạch theo các chuẩn sẽ đáp ứng yêu cầu của xã hội trong công cuộc chuyển đổi số và là một trong những hoạt động quan trọng trong tiến trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam cho hội nhập quốc tế. Thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng đào tạo nhân lực ngành công nghệ thông tin, cải tiến chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, thực hiện chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp và nhà trường, kết nối doanh nghiệp với nhà trường để sinh viên được thực hành, thực tập tại doanh nghiệp, cùng nhau xây dựng năng lực về đào tạo lại, đào tạo liên tục trong chuyên môn… để tránh chồng chéo giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Hai là, cần chuẩn hóa các nội dung, kiến thức đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin theo danh mục mới ssssđược cập nhật một cách liên tục để đáp ứng được yêu cầu đối với nhân lực ngành công nghệ thông tin. Hiện nay, tại Việt Nam, việc thiếu hụt nhân lực công nghệ thông tin đạt chuẩn quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghệ thông tin mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin đạt chuẩn quốc tế ngày càng tăng cao. Ðồng thời, các trường đại học và trung tâm đào tạo công nghệ thông tin cũng cần cập nhật và phát triển các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp các sinh viên có thể cạnh tranh được với các nhân viên công nghệ thông tin ở các nước khác. Thực tế cũng cho thấy sự phát triển của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ mang lại những thách thức trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Trong đó, nhiều ngành nghề cũ mất đi, ngành nghề mới ra đời, nên bắt buộc danh mục đào tạo cũng phải thay đổi theo.
Ba là, ngoài việc chú trọng đào tạo chuyên môn, các trường, đơn vị đào tạo cần đẩy mạnh đào tạo về kỹ năng đối với sinh viên ngành công nghệ thông tin, đặc biệt là các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp và ngoại ngữ, bởi ngoại ngữ là yếu tố then chốt và đang là điểm thắt lớn nhất của nhân lực Công nghệ thông tin, rào cản nhân lực Công nghệ thông tin tiếp cận với kiến thức mới của thế giới và khu vực. Ðể đáp ứng nhu cầu này, các trường đại học và trung tâm đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam cần tập trung đào tạo các kỹ năng mới và tiên tiến nhất trong ngành công nghệ thông tin, như lập trình ứng dụng di động, trí tuệ nhân tạo, khai phá dữ liệu, an ninh mạng, công nghệ đám mây… và nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên ngành học.
Bốn là, về phía cơ sở đào tạo cần coi trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên. Giảng viên cần được thực tế nhiều hơn tại các đơn vị sản xuất. Tiếp nữa là các cơ sở đào tạo cần mở rộng hơn việc hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, lựa chọn những cán bộ, sinh viên đủ năng lực, phẩm chất đi học tập, nghiên cứu chuyên sâu những ngành mới của thế giới. Để có một giải pháp hiệu quả, các đơn vị đào tạo cần xây dựng nhiều mô hình, cách thức triển khai xây dựng chương trình khung khác nhau, tập trung theo hướng đào tạo đại học các ngành công nghệ thông tin theo hướng kết hợp. Dựa trên cơ sở khung chương trình đào tạo đảm bảo chuẩn quốc tế và khu vực được ban hành, các đơn vị đào tạo có thể linh động điều chỉnh, thay đổi, bổ sung một số nội dung theo đặc thù của đơn vị. Đảm bảo khối lượng điều chỉnh không quá một tỷ lệ xác định so với chương trình mẫu.
Năm là, tăng cường hạ tầng đào tạo, để tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực ngành công nghệ thông tin, các cơ quan quản lý có thể tính tới hợp tác với các trường đào tạo trọng điểm trong một số lĩnh vực như an ninh mạng, an toàn thông tin để các trường có điều kiện đầu tư nguồn lực về con người và cơ sở vật chất để phục vụ đào tạo, xây dựng hệ thống đào tạo truyền thống kết hợp với đào tạo trực tuyến, xây dựng các chuyên đề đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng nhóm đối tượng, cơ quan quản lý, doanh nghiệp, đơn vị dịch vụ công… Đào tạo các chuyên ngành công nghệ thông tin, công nghệ số, kinh tế số và xã hội số, tăng sự liên kết giữa nội dung công nghệ thông tin với các ngành: Y tế, Du lịch, Tài chính, Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Năng lượng, Sản xuất công nghiệp.
Sáu là, thực hiện đào tạo lại, đào tạo nâng cao về công nghệ thông tin, công nghệ số, kỹ năng số, tổ chức đào tạo chuẩn hóa theo Hệ thống đánh giá, sát hạch Chuẩn kỹ năng nghề Quốc gia với khung đánh giá chuẩn kỹ năng thì kết quả sát hạch là “thước đo” quan trọng đánh giá phẩm chất nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp tuyển chọn được nhân lực đạt chuẩn quốc tế, các nhà quản lý có cơ sở để đánh giá thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực nguồn, làm cơ sở hoạch định các chính sá
Bảy là, về cơ chế tài chính cần ưu tiên bố trí kinh phí để triển khai các chương trình, dự án đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực công nghệ thông tin, các dự án về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính và quản lý Nhà nước. Trong đó, ưu tiên kinh phí từ các chương trình học bổng đề đào tạo giảng viên, nghiên cứu viên và cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin, kỹ thuật số tại nước ngoài phục vụ công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho các trường đại học chuyên ngành. Khai thác nguồn kinh phí từ các doanh nghiệp thông qua các chương trình liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm tạo diều kiện tốt cho việc đào tạo nhân lực công nghệ cao cho doanh nghiệp.
Có thể thấy cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thời đại công nghệ số, kinh tế số tại Việt Nam đặt ra đòi hỏi nguồn nhân lực về công nghệ thông tin mạnh mẽ về cả số lượng lẫn chất lượng. Thời gian tới cần áp dụng đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy phát triển kỹ năng cho lao động ngành công nghệ thông tin tại Việt Nam góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thích ứng trước bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động và trước xu thế toàn cầu hóa của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các quốc gia trên thế giới.
[1] Theo dữ liệu thống kê của Bloomberg.
[2] Theo nhận định trong Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới năm 2022 và dự báo năm 2023 của IM
Tác giả: Phạm Thị Lệ Thanh
Đặc san phát triển kinh tế – xã hội số 21